TÌNH HUỐNG LUẬT HÌNH SỰ PHẦN RIÊNG
(Nhóm 3 tiết 123 phòng 101KL)
Tất cả các vụ án được giải quyết theo Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017
NHÓM 1
Vụ án 1:
Khoảng 19giờ ngày 24/1/2004, Nguyễn Văn Bình, Hà Văn Quân và Hà Văn Tâm (đều là chiến sỹ của đơn vị H), sau khi đi uống rượu xong, trên đường trở về đơn vị thì Quân có gây sự với một số chiến sỹ cùng đơn vị và bị tổ vệ binh cơ động (gồm Quyết, Quang, Huấn do Tùng làm tổ trưởng) yêu cầu về trung đội vệ binh để giải quyết. Tổ vệ binh cơ động được trang bị 1 súng AK bên trong có 2 viên đạn, dùi cui và đèn pin. Bình và Tâm xin bỏ qua nhưng Tùng không đồng ý và buộc mọi người phải chấp hành.
Không xin được tổ vệ binh, Bình và Tâm đi theo tổ vệ binh, Quân không đi và bất ngờ đạp vào bụng Quang một phát làm Quang ngã. Sau khi đứng dậy, Quang rọi đèn pin vào mặt Quân và nói: “Thằng này mới đạp tao, đánh nó!” Quyết liền dùng dùi cui đánh Quân. Bình thấy Quân bị đánh nên quay lại xin tổ vệ binh đừng đánh Quân nữa và dùng tay kéo Quyết ra. Thấy vậy, cả Huấn, Tùng và Quang xông vào đánh Bình. Nhân cơ hội đó, Quân đấm một quả sau gáy Huấn làm Huấn ngã lăn ra đất, bất tỉnh. Cả Quyết, Quang, Tùng xúm lại khiêng Huấn đi cấp cứu. Quân trốn thoát.
Kết quả Huấn bị chết do gãy “cổ cúp”. Bình bị đánh tỷ lệ thương tật 14%.
Theo anh (chị), có ai phạm tội không và phạm tội gì (nếu có). Phân tích dấu hiệu pháp lý.
Vụ án 2
Khoảng 20 giờ 30 ngày 15/12/2003, sau khi ăn cơm và uống rượu ở nhà mẹ vợ (bà Minh), Nguyễn Văn Hằng mượn xe đạp của mẹ vợ đi về nhà ở xã V, huyện T, tỉnh P. Khi đi trên đường, Hằng gặp Nguyễn Thị Mến (sinh ngày 1/8/1986, người hàng xóm của bà Minh). Hằng dừng xe và nói với Mến: “Anh biết chị gái em đang làm việc ở nhà máy hoa quả Tam Dương, chị ấy nhắn em qua lấy tiền và quần áo về nhà dùng” và rủ Mến cùng đi. Nghe nói vậy, Hằng đồng ý đi cùng Hằng xuống nhà máy hoa quả Tam Dương để gặp chị của mình. Hằng chở Mến đi theo đường liên huyện, khi đến đoạn đường cầu Vân Tập thì Hằng rẽ vào đường đi ra nghĩa trang xã V. Thấy vậy, Mến hỏi Hằng: “Sao anh lại đi đường này?”. Hằng nói: “Đi đường này cho gần cưng”. Hằng tiếp tục chở Mến đến nghĩa trang và dừng cạnh một ngôi mộ rồi đi vào trong nghĩa trang. Đi được khoảng 20m, Hằng gọi Mến vào nhưng Mến không chịu. Hằng ra kéo tay Mến vào, được khoảng 10m, Hằng nói: “Chiều anh tí cưng”. Mến sợ hải hất tay Hằng ra. Hằng dọa: “Nếu mày không chịu thì tao phanh thây mày ra đấy con! Tao có dao đây nè.” Mến nói: “Anh đem dao ra đây, tôi chết cũng được”. Hằng nói: “Cưng có chết anh cũng không tha đâu cưng”. Thấy Hằng đe dọa hùng hổ, lại thêm đêm tối nơi nghĩa trang không có người, Mến khóc lóc năn nỉ Hằng tha cho nhưng Hằng vẫn kéo Mến nằm xuống nền một ngôi mộ, dùng hai tay ghì hai tay của Mến, nằm đè lên người Mến, Mến giãy giụa và xô Hằng ra nhưng không được. Một lúc, Hằng cỡi bỏ quần áp của Mến và của mình rồi tiến hành giao cấu Mến. Giao cấu Mến xong, Hằng mặc quần áo vào nhìn Mến vẫn nằm khóc. Sau đó, Mến ngồi dậy mặc quần áo vào và bỏ chạy, Hằng lấy xe đạp đuổi theo. Được khoảng 100m thì kịp. Hằng nói: “Lên xe anh chở về cưng!”. Thấy trời tối nến Mến lên xe cho Hằng chở về. Tới xóm giữa, Hằng bảo Mến xuống xe đứng đợi để vào nhà anh Nguyễn Văn Khi đòi nợ. Khi Hằng đi, Mến chạy vào nhà anh Trần Văn Mỹ khóc lóc nhưng không nói được gì. Vợ chồng anh Mỹ đã đưa Mến đến trụ sở UBND xã V để tìm hiểu sự việc. Sau đó, sự việc được làm rõ.
Tại biên bản giám định pháp y số 24 (16/12/2003) của tổ chức giám định pháp ý tỉnh P kết luận: màng trinh bị rách ở vị trí 5 giờ, rách sát gốc, âm đạo có nhiều tinh dịch, tỷ lệ thương tật 15%.
Anh (chị) hãy định tội và khung hình phạt cho Hằng.
NHÓM 2
Vụ án 1:
Vào trung tuần tháng 8/2003, Đoàn Trường Kiếm cùng với Nguyễn Trung Đao và Trần Đoản Gươm rủ nhau vào khu tập thể giáo viên của trường PTTH Thiên Thai để “kiếm ăn”. Đây là khu tập thể dành riêng cho cán bộ giáo viên trường còn độc thân. Khi đi, Kiếm và Gươm có mang theo 2 thanh sắt dài khoảng 50cm, đường kính 2cm. Khi đi, bọn chúng đã bàn bạc phương án hành động.
Khi tới nơi, bọn chúng thấy có một phòng cửa khép hờ, không khoá, bên trong không có người. Phòng bên cạnh có 3 người (2 nam, 1 nữ) đang ngồi tán gẫu. Thấy vậy Kiếm và Gươm mỗi người cầm một thanh sắt đứng chặn ngang cửa phòng và quát: “Ngồi im, đứa nào ra tao đập chết!” (nhằm để cho Đao vào phòng bên cạnh lấy tài sản). Khi thấy có một người đang đeo chiếc đồng hồ Tiger Wings đẹp, lạ mắt, Tùng quát: “Thằng kia, tháo đồng hồ đưa tao, không tao đập bể đầu à!”. Ba người nhốn nháo nhưng không chịu đưa đồng hồ. Tùng xông vào định đánh người đeo đồng hồ liền bị ba người trong phòng dùng nồi niêu, chén bát quăng ngược lại phải lui ra. Nhân lúc đó, ba người trong phòng thoát ra ngoài. Kiếm và Gươm đuổi theo. Ba người thấy phòng bên cạnh có người lấy đồ nhưng do bị hai tên có hung khí đuổi nên không dám quay lại ngăn chặn. Đuổi được một đoạn, hai tên quay lại vì nghĩ rằng Đao đã lấy đồ xong rồi.
Phòng bên cạnh, Đao lấy được 1 quạt bàn Thái Lan (trị giá 1 triệu), một điện thoại di động Sam Sung (3.800.000 đồng), cùng 15.700.000 tiền mặt. Tất cả tài sản này được xác định là của những người phòng bên cạnh chứ không phải của những người ở phòng của Kiếm và Gươm khống chế.
Vụ này anh (chị) tính sao? Phân tích.
Vụ án 2
Tháng 10/2002, trong buổi gặp mặt với 8 học viên quân đội trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh vào khóa 23 Học viện cảnh sát nhân dân, được sự nhất trí của tập thể học viên, Trần Văn Hùng (chuẩn úy) được Đoàn 871 (Trung tâm quản lý và bồi dưỡng học viên) giao nhiệm vụ là đoàn trưởng của 8 học viên trong thời gian học tập tại Học viện. Hàng tháng, Hùng có nhiệm vụ nắm tình hình học tập, rèn luyện của học viên để báo cáo với Đoàn 871 và thay mặt anh, em nhận lương, phụ cấp, tiền ăn và các khoản khác theo chế độ quân đội mang về phát cho anh, em. Hùng được Đoàn 871 thanh toán 17.500/lần đi và về (từ Học viện đến Trung tâm và ngược lại). Trong thời gian từ tháng 2/2003- 5/2003, Hùng đã có một số hành vi sau đây:
- Ngày 1/3/2003, Hùng nhận từ Đoàn 871 tiền làm thẻ của 8 học viên mỗi người 30 ngàn đồng (tổng cộng 240 ngàn đồng) nhưng Hùng không cấp cho anh, em mà để lại tiêu xài cá nhân;
- Ngày 3/6/2003, sau khi nhận ở Đoàn 871 tiêu chuẩn quân trang của 8 học viên (trị giá 1.483.520 đồng), Hùng đem bán lấy tiền tiêu hết;
- Ngày 5/6/2003, Hùng nhận các khoản mà Đoàn 871 cấp cho các học viên gồm: tiền phụ cấp, tiền ăn tháng là 2.719.400 đồng, tiền bồi dưỡng học võ 700.000 đồng, tiền mua tài liệu 600.000 đồng. Số tiền này Hùng “vớt” rồi bỏ trốn khỏi đơn vị.
Cơ quan điều tra đã khởi tố Hùng. Sau khi kết thúc điều tra, Hùng đã tự nguyện nộp lại đủ số tiền đã chiếm đoạt.
Theo anh (chị), Hùng có phạm tội không và phạm tội gì?
NHÓM 3
Vụ án 1
Đỗ Quốc Quý cưới Nguyễn Thu Dậu và đã có hai con gái chung. Quý tuyên bố với Dậu là sẽ đi cưới người khác để có con trai nối dõi tông đường. Quân tử nhất ngôn, qua mai mối, Quý đã quen được Phạm Thị Minh Hà, người xã bên. Hai người đã yêu nhau.
Mặc cho vợ con can ngăn, dư luận phản đối, Quý vẫn sang nhà Hà sống chung với Hà như vợ chồng. Một năm sau, hai người đã có một đứa con trai.
Để có cơ sở chung sống với nhau, đảm bảo con có cha, Quý đến gặp Lê Công Cẩn (Chủ tịch xã lúc đó) là bạn nối khố của Quý nhờ Cẩn giúp làm giấy kết hôn cho mình, kèm theo món quà là một TV Sony mới khui thùng. Ban đầu, Cẩn từ chối vì biết đó là hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, thấy Quý và Hà đã có con chung với nhau, vợ cả và các con cũng không ai kiện cáo gì nên Cẩn làm liều cấp giấy đăng ký kết hôn cho Quý và Hà.
Sau khi đăng ký kết hôn rồi, Quý đưa Hà về chung sống với mình trước mặt Dậu và các con. Trong thời gian chung sống, ỷ mình còn trẻ lại sinh con trai cho chồng, Hà lười lao động mà còn hay chửi bới chị Dậu và các con của chị Dậu. Quá bức xúc, chị Dậu đã nhờ đến cơ quan của phụ nữ mà người đàn ông rất sợ, đó là Hội phụ nữ. Với sự giúp đỡ của Hội phụ nữ xã, chị Dậu đã kiện hành vi của chồng mình đến Tòa án. Tòa án đã quyết định hủy hôn nhân trái pháp luật này.
Quý tức giận thường xuyên đánh chửi chị Dậu, nhiều lần không cho chị ăn cơm, nhốt chị trong buồng không cho ra ngòai nhiều ngày làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của chị. Có lần, Quý còn cởi quần áo của chị Dậu đuổi ra ngòai đường ban ngày mặc cho các con gái la khóc, van xin. Bên cạnh đó, Quý bất chấp quyết định của Tòa án đã hủy hôn nhân trái pháp luật, vẫn tiếp tục chung sống với Hà như cũ trong ngôi nhà của mẹ con chị Dậu.
Anh (chị) hãy định tội cho các bị can trong vụ án.
Vụ án 2
Lê Văn Phước (45 tuổi), ở xã Hộ Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận, có nuôi một đàn dê 32 con. Phước thường thả dê theo dọc sườn đồi để dê ăn cỏ và không có người chăn giữ. Ngày hai buổi, trưa và chiều Phước mới ra lùa dê về chuồng.
Ngày 7/1/2006, đàn dê của Phước bị mất 2 con dê cái. Phước đã tổ chức tìm quanh khu vực chăn thả nhưng không phát hiện dấu vết. Biết là bị ai bắt trộm nên ngày hôm sau, tức ngày 8/1/2006, sau khi thả dê đi ăn, Phước bí mật núp sau vách núi để quan sát. Phước phát hiện thấy em Nguyễn Đình Long (17 tuổi, ở thị xã Phan Rang - Tháp Chàm) ở gần khu vực đàn dê của mình liền phóng ra khỏi chỗ núp, chụp cổ Long, bẻ quặt tay ra sau dẫn về. Trên đường đi, lợi dụng Phước bị vấp cục đá, Long đã bỏ chạy. Phước cầm cục đá khoảng xanh nặng 350gram ném theo. Đá trúng lưng Long làm Long ngã quỵ.
Giám định pháp y cho thấy, Long bị gãy cột sống vĩnh viễn, tỷ lệ thương tật 62%.
Theo anh (chị), có ai phạm tội trong trường hợp này không? Tội gì (nếu có) và phân tích dấu hiệu pháp lý.
NHÓM 4
Vụ án 1
Tháng 6/2005, Nguyễn Văn Đức (SN: 1966) nhặt được 2 cục kim loại hình khối, màu xám. Cục thứ nhất có kích thước 10x8,5x6,5cm mang số 14488500 trọng lượng 5,6kg, cục thứ hai có kích thước 8,8x4,6x7cm mang số 14499041 trọng lượng 4,1kg. Cả hau cục đều có khắc chìm dòng chữ Uranium-9999% RH-made in USA và một hình sọ người có hai gạch chéo phía dưới.
Tháng 8/2005, Đức đến nhà Trần Thanh Châu cho Châu xem. Đức hỏi: “Có biết cục gì không?” Châu trả lời: “Tao không biết”. Đức nói: “Đó là cục Uranium rất có giá trị, nếu bán được khoảng 20 – 30 triệu đồng đó. Anh ở gần đường thế này dễ bán”. Nghe thế, Châu hỏi mua hai cục Uranium trên với giá 7.500.000 đồng. Sau một lúc do dự, Đức đồng ý. Sau khi mua, Châu biết đây là loại chất phóng xạ nguy hiểm nên bọc vào nilong và mang chôn sau nhà, chờ ngày tiêu thụ.
Tháng 10/2005, Châu hỏi nhiều mối mà chẳng ai chịu mua cục Uranium vì chẳng biết để làm gì và sợ chất phóng xạ. Châu đã nhờ Chu Phát Lai đóng giả người thu mua đồ cổ đến nhà chị Phù Thu Minh (người mà Châu đã mang cục Uranium đến chào hàng nhưng bị từ chối) để hỏi mua đồ cổ. Chị Minh nói hôm qua có một người đến muốn bán cục Uranium nhưng chị không mua. Lai bảo chi cứ tìm mua, rồi Lai sẽ mua lại với giá rất cao, gần 10 triệu đồng/kg. Nghe vậy, chị Minh đã tìm đến nhà Châu nhưng Châu không có ở nhà. Hôm sau, Lai lại đến hỏi có “hàng” chưa (Châu nhờ Lai đến lần nữa cho “ép-phê”). Chị Châu hẹn khi có là liên lạc Lai liền (Lai có cho số điện thoại). Ngày 17/10/2005, Minh đến nhà và gặp Châu. Châu đồng ý bán 2 cục Uranium với giá 25 triệu đồng. Chị Minh đồng ý. Khi mang hai cục Uranium về đến nhà, chị Minh gọi điện thoại ngay cho Lai thì được trả lời: “The number you’ve have called unreal” (số máy quý khách vừa gọi không có thật). Chị Minh gọi đến 8-9 lần đều được trả lời như vậy. Chị nghi ngờ và đợi đến 3 hôm sau vẫn không thấy mặt mũi Lai. Chị biết đã bị lừa nên mang 2 cục Uranium trình báo công an.
Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định 2 cục kim loại có chữ Uranium thì xác định đây là 2 cục chì.
Cơ quan điều tra đã tiến hành triệu tập những người có liên quan để lấy lời khai. Tại đây, Đức khai lại rằng 2 cục Uranium không phải do y nhặt mà do y tự tạo ra từ 10,78kg chì.
Anh (chị) tính sao vụ này?
Vụ án 2
Đào Kim Liên là Việt kiều Đức về nước, tự xưng là Giám đốc Công ty TNHH Hòa Vang, có trụ sở tại Hà Nội (thực chất là không có) để ký hợp đồng với nông dân tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu mua hạt tiêu và hạt điều. Từ năm 1999 – 2002, Liên đã thu mua được 150 tấn hạt tiêu và 200 tấn hạt điều. Số hàng này, Liên đã thông qua một số công ty khác xuất sang Đức và một số nước Châu Âu khác, thu lợi 500 triệu đồng.
Đầu năm 2003, trong khi tình hình xăng dầu khan hiếm ngòai thị trường, Liên đã bàn bạc hùn vốn cùng với Nguyễn Thanh Phong (Giám đốc công ty xăng dầu huyện H) mua hàng trăm tấn xăng dầu ngòai thị trường để dự trữ chờ lên giá. Khi giá xăng dầu lên, chúng đã xuất bán số xăng dầu này và thu lợi 200 triệu đồng.
Theo anh (chị) có ai phạm tội trong trường hợp này không? Phạm tội gì (nếu có)?
NHÓM 5
Vụ án 1:
Nguyễn Thị Tư thường trú ấp A, xã T, huyện C, tỉnh S. Vào 11 giờ trưa ngày 23/6/2004, Tư ra ruộng đốt ruộng vừa gặt lúa xong, để chuẩn bị cho vụ mùa mới. Sau khi châm lửa, Tư vào nhà. Khoảng 4 giờ, được tin báo, Tư cùng bà con ra xem thì thấy Lâm trường P, rừng tràm đã bị cháy. Tư tức tốc vào báo với Ban quản lý Lâm trường. Tuy nhiên, mọi nỗ lực dập tắt lửa không có hiệu quả. Kết quả, 50 hecta rừng tràm bị thiêu trụi.
Lâm trường S do Lê Khương Hưu làm giám đốc, Trần Trọng Hỷ là phó giám đốc. Ngày hôm đó thuộc ca trực “chòi canh” của Đỗ Quốc Đạt. Tuy nhiên, Đạt được Lưu Trọng Đài, Trịnh Hồng Ấm rủ đi nhậu vì vừa đốt được tổ ong tối qua.
Hãy xem có ai phạm tội trong vụ cháy rừng này không?
Vụ án 2:
Vũ Việt Đức, thí sinh bị bắt quả tang sử dụng điện thoại tại Học viện Ngân hàng đã khai nhận, được người quen tên Hưng (quê ở Lạng Sơn) và Hải (quê ở Vĩnh Phúc) nhận "giúp đỡ" với giá 50 triệu đồng. Đức đã đặt cọc trước 20 triệu đồng, sau khi trúng tuyển sẽ đưa nốt số tiền còn lại. Ngoài việc trang bị điện thoại xịn, tai nghe, Đức còn được nhóm này trang bị cả tóc giả để giấu tai nghe điện thoại. PA25 Hà Nội cũng đã mời thí sinh Bùi Huyền Trang số báo danh 11288 của Học viện Ngân hàng tới làm việc, nhằm làm rõ nguồn gốc những số điện thoại gọi đến máy của Trang. Trong buổi thi Toán, sau khi bị phát hiện sử dụng điện thoại di động có tai nghe, Trang đã chạy khỏi phòng thi. Cơ quan an ninh đã thu giữ điện thoại di động đang trong chế độ thông máy với thời gian sử dụng 2 giờ 15 phút. Qua rà soát hồ sơ, Trang là nữ sinh THPT Việt Đức, Hà Nội.
Tại điểm thi THPT Hoàng Văn Thụ của ĐH Kinh tế Quốc dân, Phạm Đức Việt đã bị phát hiện thi hộ cho thí sinh Lục Minh Du (quê ở Lạng Sơn). Thủ đoạn của Việt là bóc ảnh chứng minh thư và hồ sơ dự tuyển dán ảnh khác để vào phòng thi. Việt còn sử dụng điện thoại di động để đọc đề và nghe lời giải từ ngoài vào. Tại cơ quan điều tra, Việt khai đã nhận 4 triệu đồng thông qua sự giới thiệu của Đàm Văn Hưng và và một người tên Điệp.
Ngoài thủ đoạn đọc lời giải qua điện thoại, các nhân vật thi thuê còn tổ chức làm hồ sơ giả để lọt vào phòng thi. Tại Hội đồng tuyển sinh ĐH dân lập Quản lý kinh doanh đã phát hiện Nguyễn Duy Đông (sinh viên của trường), sinh năm 1979 làm hồ sơ giả mang tên Nguyễn Thanh Tùng để thi kèm cho thí sinh Nguyễn Bách Tùng, sinh năm 1988, quê ở Điện Biên.
Qua lời khai của các thí sinh bị bắt quả tang sử dụng điện thoại, Cơ quan an ninh văn hoá (PA 25) CA Hà Nội đang phối hợp với công an một số tỉnh phía Bắc điều tra đường dây thi thuê liên tỉnh quy mô lớn. Theo thông tin ban đầu, các "hợp đồng" thi thuê có thể lên tới hàng trăm triệu đồng.
Người cầm đầu đường dây thi thuê là Nguyễn Hồng Hải, sinh ngày 15/12/1967 tại Tam Dương, Vĩnh Phúc, thường trú Định Trung, Vĩnh Yên. Hải có tiền án 6 tháng tù treo về tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm pháp mà có" và có lệnh truy nã của Công an tỉnh Phú Thọ. Sáu đối tượng khác là đồng sự đắc lực của Hải là Nguyễn Đức Hiếu (sinh 1979, quê Hải Phòng) hiện là sinh viên Cao đẳng GTVT; Nguyễn Trung Hiếu (1984, ở Vĩnh Phúc); Vi Văn Hưng (1980, Lạng Sơn); Xa Xuân Thọ (1982, Hoà Bình); Ngô Văn Chung (1983, Phú Thọ); Nguyễn Minh Tuấn (1979, Phú Thọ).
Theo lời khai của Hải, đường dây đã sử dụng trên 50 người là sinh viên ở các trường ĐH (có sinh viên đã tốt nghiệp) để phục vụ việc giải đề thi, đọc bài thi, in sao lời giải, kỹ thuật viên phục vụ cho việc gọi điện thoại di động vào các hội đồng thi cho thí sinh. Các sinh viên tham gia giải đề được tuyển chọn từ các trường danh tiếng và từng có kết quả thi đại học trên 23 điểm.
Thủ đoạn của nhóm Hải là: khi có 1 “hợp đồng”, Hải cử 1 sinh viên làm hồ sơ thi kèm hoặc làm giả hồ sơ để thi thay cho thí sinh hoặc trang bị điện thoại di động, tai nghe, tóc giả… tuỳ từng trường hợp. Đối với các đối tượng thi kèm thì tên của sinh viên thi kèm phải trùng với tên thí sinh “hợp đồng”. Khi ghi tên và số báo danh, sinh viên sẽ ghi thông tin này của thí sinh. Trong trường hợp thi thay thí sinh, sau khi nhận hồ sơ, người của Hải sẽ bóc ảnh thí sinh ra khỏi giấy báo thi, chứng minh thư, dán ảnh mình vào để đi thi với danh nghĩa của thí sinh. Đối với các trường hợp khác, nhóm Hải trang bị ĐTDĐ, tai nghe, tóc giả, áo sơ mi túi trong…Sau khi nhận đề thi xong, thí sinh này có nhiệm vụ đọc khẻ nội dung đề thi qua ĐTDĐ được giấu cẩn thận trong người. Người của Hải sẽ nhận cuộc gọi, ghi nhận và giải đề thi trong vòng 15 phút. Sau đó, người của Hải sẽ đọc lại lời giải cho thí sinh qua tai nghe. Một số trường hợp thí sinh bị bắt quả tang khi đang nhận lời giải bằng tai nghe từ bên ngoài vào và đường dây của Hải bị phát hiện. Cơ quan công an đã thu giữ hơn 70 điện thoại di động, 50 sạc điện thoại, hơn 100 simcard, hàng chục chiếc áo sơ mi, 5 bộ tóc giả.
Anh (chị) hãy định tội trong vụ án này.
NHÓM 6
Vụ án 1
Ngày 13/3/2001, dân quân xã P bắt được một số người mang thuốc lá ngọai qua biên giới. Chủ tịch xã giao những người bị bắt cho Lưu Quang Hưng (xã đội trưởng) cùng 2 dân quân đưa những người bị bắt về UBND xã để lập biên bản giải quyết. Trên đường đi, Hưng quyết định thả những người bị bắt cùng số hàng hóa của họ vì trong số những người bị bắt có Mỹ, là người bà con của Hưng.
Ngày 5/5/2001, Hưng cùng Kiếm (công an xã) đi tuần tra phát hiện một người có biểu hiện khả nghi. Hưng liền hô đứng lại và bắn chỉ thiên. Người lạ mặt là Bình, hỏang sợ đứng lại. Hưng và Kiếm đã tiến hành kiểm tra ba lô của người đó và phát hiện 4 gói thuốc phiện, trọng lượng 2 kg. Hưng và Kiếm quyết định lập biên bản tại chỗ trước sự chứng kiến của một số người dân địa phương. Sau đó, họ dẫn Bình cùng tang vật về UBND để giải quyết.
Trên đường đi, Bình giả vờ kêu đau bụng và xin đi ngòai. Lợi dụng sự mất cảnh giác của Hưng và Kiếm, Bình bỏ chạy mất dạng. Thấy vậy, Hưng và Kiếm đã bàn nhau chia số thuốc phiện trên mỗi người 1kg đem về cất giấu đợi một thời gian sẽ đem đi tiêu thụ. Tuy nhiên, khi chúng chưa bán được thì sự việc bị phát hiện. Hưng và Kiếm đã tự nguyện mang trả lại số thuốc phiện trên cho cơ quan Điều tra.
Anh (chị) hãy giải quyết vụ án này.
Vụ án 2
Hòang Trung Quốc là một con nghiện. Tháng 5/2001, chính quyền địa phương đã đưa Quốc đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm cai nghiện ma túy Hà Tây với thời gian 1 năm. Tháng 5/2002, Quốc được về nhà.
Ngày 2/2/2003, Quốc đã rủ Lê Hữu Thành, Lương Quốc Xuân đi sử dụng chất ma túy. Quốc đã đưa cho Thành 50.000 đồng để Thành mua một ống nước cất và 2 xi-lanh tiêm. Sau đó, cả ba tên tìm đến nhà một người không quen mua một gói thuốc phiện giá 40.000 đồng (tiền của Quốc) mang ra bãi cỏ để pha chế và tiêm cho nhau. Sự việc bị phát hiện và cả 3 tên bị bắt giữ.
Tang vật thu được gồm 2 xi-lanh, một giấy bạc còn gói một ít chất màu nâu. Tuy nhiên, qua giám định 2 xi-lanh và chất màu nâu còn lại không phát hiện chất ma túy. Tiến hành điều tra xác định được sở dĩ có kết quả này là do chúng đã mua nhằm thuốc phiện giả.
Theo anh (chị), có ai phạm tội trong vụ này không? Tại sao?
NHÓM 7
Vụ án 1
Khoảng 14 giờ ngày 11/10/2001, trong khi Lê Văn Tâm đang ngủ trưa tại nhà của mình thì các đối tượng gồm Lê Văn Dân, Hoàng Văn Nghĩa, Nguyễn Văn Dũng đến chơi. Khi cả bọn đang ngồi chơi, Dân đề xuất mọi người cùng nhau đánh “xóc đĩa” và cả bọn nhất trí.
Tâm đi lấy 1 cái bát, 1 đĩa sứ, 1 vỏ bao thuốc lá Vinataba của gia đình đưa cho Dũng để cắt 4 quân bài. Khi Dũng chuẩn bị xong, cả 4 người tiến hành chơi và thống nhất mức thấp nhất trong một ván là 2000 đồng, cao nhất là 10.000 đồng. Theo quy định, ai đặt trúng cửa chẵn hoặc cửa lẻ, khi mở bát sai sẽ bị thua.
Cả bọn chơi được khoảng 15 phút thì Dân nghỉ vì có người nhà gọi về. Ngay sau đó, lần lượt Công, Liêm, Bằng, Tuấn, Long, Khải, Bộ vào tham gia chơi xóc đĩa. Cả bọn tiến hành sát phạt đến khoảng 16h30 cùng ngày thì bị Công an ập đến.
Công an phường có chị Phạm Thu Hương và anh Bành Tiến Lương. Trong lúc giằng co, Nghĩa phóng ra ôm chị Hương với ý định để cho chị xấu hổ và bỏ đi, không lập biên bản vụ này. Không ngờ, Hương không xấu hổ mà quay lại dùng colt chọt vào “bộ chỉ huy” của Nghĩa làm Nghĩa đau đớn buông chị Hương ra. Cả bọn nhốn nháo la lên: “Công an đánh dân” và xông vào giằng co với hai chiến sĩ công an. Một lúc sau, khi có thêm 2 cảnh sát khu vực đến tiếp ứng thì cả bọn Nghĩa mới bị khống chế.
Tang vật thu giữ gồm: 1 bát, 1 đĩa sứ, 8 quân bài (bằng bao thuốc lá), 2 bộ tú lơ khơ và 2. 164.000 đồng. Tỷ lệ thương tật của Nghĩa là 15%, (một tinh hoàn bị dập, không thể phục hồi chức năng)
Theo anh (chị) các bị cáo có phạm tội không và phạm tội gì? Phân tích.
Vụ án 2
Nguyễn Văn Tịnh (1971) là một kẻ sáng say chiều xỉn, càng quấy, thường xuyên gây rối xóm làng. Ngày 1/8/2005, sau khi uống rượu với một số bạn bè ở đầu làng, Tịnh đến khu vực chợ kiếm chuyện gây gỗ với mọi người. Phát hiện có anh Cừ (1976) là người ở nơi khác đến mua phân bón, Tịnh đến chỗ anh Cừ và chọc tức. Tuy nhiên, anh Cừ thấy Tịnh say nên không nói gì.
Nói một mình một lúc không thấy Cừ trả lời, Tịnh tức giận nói rằng anh Cừ không nễ mặt mình và liền xông vào túm cổ áo và giật nón trên đầu anh Cừ. Anh Cừ sợ hãy nhảy xuống sông. Tịnh lượm đá ném theo, anh Cừ lặn. Những người đi chợ xúm lại xem liền bị Tịnh chửi.
Thấy xôn xao, ông Hồ Công Trị là Trưởng Công an xã đến để giải quyết và yêu cầu Tịnh dừng ngay các hành vi kể trên. Tịnh chẳng những không nghe theo ông Trị mà còn chộp cây củi (dài khoảng 50cm) đánh tới tấp vào người ông Trị khiến ông Trị không trở tay kịp, rồi bỏ chạy. Sau đó, Tịnh bị bắt. Kết quả, ông Trị bị thương với tỷ lệ thương tật 8%, anh Cừ không bị thương.
Theo anh (chị), Tịnh phạm tội gì? Phân tích.
NHÓM 8
Vụ án 1
Nguyễn Vũ Lâm là cán bộ thu thuế tại thị trấn Rạch Ráng thuộc chi cục thuế huyện Trần Văn Thời, được Quách Chênh là chủ tàu tốc hành tuyến đường Cà Mau – Sông Đốc rủ đi ăn nhậu, ca cổ, massage… nhiều lần. Để bù đắp cho Chênh số tiền đã chi ăn nhậu, ngày 12/3/2003[1], Lâm đã viết cho Chênh 4 biên lai thu thuế, gồm thuế buôn chuyến và thuế tài nguyên, số lượng là 700kg mực khô, trị giá 15.575.000 đồng để Chênh chở hàng không cần nộp thuế. Để che giấu chuyện này, Lâm đã ghi vào 4 biên lai lưu với số tiền phải nộp là 310.000 đồng. Lâm đã bro tiền túi ra nộp khoảng này.
Được 4 biên lai thu thuế, Chênh đã về Sông Đốc mua 1100 kg mực khô, khi chở đến Rạch Ráng thì cán bộ thuế (đồng nghiệp của Lâm) kiểm tra và phát hiện có sự chênh lệch. Từ đó, việc làm của Lâm bị phát hiện.
Theo anh (chi), Lâm và Chênh có phạm tội không và phạm tội gì?
[1] Năm thật 1991.
Vụ án 2
Vào năm 2001, Cao Thị Hai ở ấp Tân Lộc, xã Tân Lược, huyện Bình Minh – Vĩnh Long có tranh chấp đất với UBND xã Tân Lược. Vụ tranh chấp được tòa án nhân dân huyện Bình Minh và tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử với kết quả bà Hai thua kiện vì phần đất này đã được cha của bà Hai bán cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa năm 1962, bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Cao Thị Hai không chấp nhận bản án mà tiếp tục ra Hà Nội để khiếu kiện ở các cơ quan Trung ương. Tòa án nhân dân tối cao đã bác đơn khiếu nại của bà Hai vì khiếu nại không có cơ sở. Nếu có cơ sở xác minh nguồn gốc xác nhận đất chưa bị truất hữu thì mới được xét giải quyết giám đốc thẩm. Từ đó, bà Hai tìm mọi cách để tìm cho được giấy xác nhận đất chưa bị truất hữu.
Trong thời gian ở Hà Nội khiếu kiện, bà Hai và con gái là Võ Thị Mãnh cùng ở nhà trọ số 3A, ngõ 94, phố Ngọc Hà – Hà Nội. Tại đây, Hai và Mãnh đã quên biết Lê Ngọc Hiền và Trần Thị Hòa. Hòa đã kêu Hai nhờ Hiền làm giấy xác nhận cho vì Hiền có quen với Nguyễn Văn Tâm (thanh tra viên thanh tra địa chính tỉnh Vĩnh Long). Hai đã nhờ Hiền đến thanh tra địa chính tỉnh Vĩnh Long làm giấy xác nhận đất của mình chưa bị truất hữu và đưa cho Hiền 30 triệu đồng. Hai sợ đưa tiền trước cho Hiền mà Hiền không làm giấy xác nhận được thì chiếm đoạt tiền của mình nên sai Mãnh cùng Hiền về Vĩnh Long để lo giấy xác nhận, khi nào xong giấy xác nhận thì Mãnh sẽ đưa tiền cho Hiền.
Khi Mãnh và Hiền về Vĩnh Long, Mãnh đưa cho Hiền tờ trình xin xác nhận đất chưa bị truất hữu do CaoThị Hai đứng tên. Hiền đến gặp Nguyễn Văn Tâm xin xác nhận nhưng Tâm không đồng ý và nói là không đúng chức năng. Tuy nhiên, sau nhiều lần Hiền rủ Tâm đi nhậu bia ôm, Tâm đồng ý. Tâm cầm tờ trình xin xác nhận đến gặp Nguyễn Minh Luân (lúc đó là phó chánh thanh tra sở địa chính Vĩnh Long nhờ xác nhận). Luân biết xác nhận như vậy là sai nhưng nghĩ tình nghĩa nên vẫn xác nhận dùm Tâm. Sau khi xin xác nhận xong, Tâm đem về cơ quan đóng dấu rồi đưa cho Hiền. Mãnh đưa cho Hiền 30 triệu đồng tại quán cà phê gần cầu Đường Chừa, Hiền đã đưa cho Tâm 4.5 triệu đồng.
Anh (chị) hãy xác định tội danh cho những bị can trong vụ án.
NHÓM 9
Vụ án 1
Khoảng 9 giờ ngày 6/7/2003, Nguyễn Văn Nam đến uống cà phê tại quán cà phê Thu Hiền thì gặp Nguyễn Hữu Đông và Hoàng Quốc Khánh. Do quen biết nhau từ trước nên Nam rủ Đông và Khánh cùng đi kiếm đồ trộm cắp kiếm tiền tiêu xài. Đông, Khánh không đồng ý mà rủ Nam đến khu vực vườn hoa thị trấn H làm “phi vụ” khác. Nam đồng ý và cả ba tên cùng đến vườn hoa thị trấn H. Trước khi đi, Nam vào trong quán lấy trộm một con dao Thái Lan dài khoảng 25cm, Đông lấy một con dao loaaji dùng để chẻ củi dài khoảng 40cm. Cả ba đứng chờ tại vườn hoa thị trấn H đến khoảng 22 giờ 30, bọ chúng thấy có ánh đèn xe máy do anh Nguyễn Văn Quang điều khiển chạy đến. Bọn chúng lập tức ra dùng dao uy hiếp anh Quang vào khu vực vườn hoa. Đông lấy dây lưng của mình trói anh Quang, xé áo lạnh anh Quang nhét vào mồm anh Quang, trói anh Quang vào cây. Sau đó, chúng lấy đi chiếc xe City của anh Quang.
Ngày 11/7/2003, do không tìm được nơi bán nên Nam đưa xe cho Khánh và Đông đi tìm mối. Thông qua môi giới của Lạc (bạn của Khánh), bọn chúng đã tìm đến Lê Văn Chiến để thảo luận. Khi mua xe, Chiến thấy xe không có giấy tờ nên hỏi Khánh, Khánh nói để quên giấy tờ ở nhà nên Chiến không hỏi thêm. Chiến mua xe với giá 3 triệu đồng.
Qua điều tra, Khánh và Đông khai lại đã nhiều lần bán đồ trộm cắp được cho Chiến. Khi bán chiếc City cho Chiến, bọn chúng cũng kể rõ đã lấy được nên Chiến mới mua giá “bèo” như thế.
Hãy định tội và khung hình phạt cho các bị can trong vụ án.
Vụ án 2
Ngày 10/8/2001[1], Nguyễn Anh Văn (1973), có một tiền án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân chưa được xoá án tích), nói với bạn là Bùi Huy Hoàng: “Tao có ông chú muốn mua xe gắn máy không có giấy tờ, nếu mày có thì mang xuống, tao sẽ giới thiệu cho”. Nghe vậy, ngày 16/8/2001, Hoàng vào cơ quan quân khu Thủ đô lấy trộm một chiếc xe máy Dream II, biển số 31-289-Y1 của anh Nguyễn Mạnh Lợi, công tác tại phòng quân y - Cục hậu cần. Sau khi lấy được xe, Hoàng đem xe xuống bãi xe Thanh Xuân gửi, rồi đi tìm Văn để đem xe xuống chú của Văn để bán.
Khoảng 17 giờ cùng ngày, Hoàng gặp Văn nói: “Tao vừa lấy được chiếc Dream II ở quân khu Thủ đô, mày đem bán dùm tao coi”. Ngay lúc này, Văn nảy sinh ý định chiếm đoạt lại chiếc xe này, nên y nói với Hoàng: “Để tao đưa xuống chỗ chú tao ở Hà Đông”. Hoàng dẫn Văn đến chỗ gửi xe để lấy xe. Văn cầm lái, Hoàng ngồi sau chở nhau vào TX Hà Đông. Văn chạy lòng vòng qua các phố, rồi sau đó bảo Hoàng ngồi chỗ quán nước để y tự đi tìm chú.
Hoàng ngồi chờ đến 20 giờ cùng ngày, không thấy Văn chở lại nên đã đi xe ôm về nhà. Mấy hôm sau, Hoàng tiếp tục tìm Văn nhưng không gặp.
Nguyễn Anh Văn sau khi lấy được xe bỏ trốn, đưa xe ra hiệu xe thay phụ tùng, lấy 220.000 ngàn tiền chênh lệch để tiêu xài. Văn còn rủ Nguyễn Huy Hùng (Hà Tây) dùng xe máy đi câu chó trộm ở huyện Chương Mỹ bị nhân dân phát hiện đuổi bắt, chúng phải bỏ của chạy lấy người. Cơ quan Công an đã thu hồi được xe và trả cho anh Lợi. Sau đó, Văn bị bắt.
Hãy định tội cho các bị can trong vụ án và phân tích.
[1] 1997